Triều đình và chính quyền Đế_quốc_Parthia

Trung ương và các vị vua bán tự trị

Tiền xu của Kamnaskires III, vua của Elymais (ngày nay là tỉnh Khūzestān),và vợ ông nữ hoàng Anzaze, thế kỷ I TCN

So với Đế chế Achaemenes trước đó, triều đinh Parthia có sự đáng chú ý là sự phân cấp [186] Một nguồn lịch sử bản địa cho thấy rằng các vùng lãnh thổ được giám sát bởi chính quyền trung ương được tổ chức tại một cách tương tự với đế chế Seleukos. Cả hai đều có hệ thống ba cấp cho các tỉnh: Parthia marzbān, xšatrap, và dizpat, tương tự như phó vương Seleukos, eparchy, và hyparchy [187] Đế chế Parthia cũng có một số vương quốc bán tự trị bên dưới, bao gồm các tiểu quốc Caucasia Iberia, Armenia, Atropatene, Gordyene, Adiabene, Edessa, Hatra, Mesene, Elymais, và Persis[188] Những vị vua này cai trị lãnh thổ của mình và đúc tiền đúc riêng của họ khác biệt với tiền đúc hoàng gia được đúc tại kho bạc hoàng đế.[189] Điều này không giống như đế chế Achaemenes trước đó, cũng đã có một số tiểu quốc, và thậm chí là Xatrap, những người bán độc lập, nhưng "công nhận uy quyền của nhà vua, cống nạp và hỗ trợ quân sự", theo Brosius [190] Tuy nhiên, các phó vương vào thời Parthia cai trị vùng lãnh thổ nhỏ hơn, và có lẽ đã có ít uy tín và ảnh hưởng hơn so với những người tiền nhiệm Achaemenes của họ.[191] Trong thời kì nhà Seleukos, xu hướng các triều đại cầm quyền địa phương với quy tắc bán tự trị, và đôi khi hoàn toàn nổi loạn, đã trở thành phổ biến, một thực tế lặp lại vào thời kì người Parthia cai trị sau này.[192]

Quý tộc

Một bức tương bằng đồng của một quý tộc Parthia có lẽ là tướng Surena[193] phát hiện tại thánh địa Shami ở Elymais (tỉnh Khūzestān, Iran, bên bờ vịnh Ba Tư ngày nay), hiện nằm trong Bảo tàng quốc gia Iran.

Vua của các vị vua là người đứng đầu triều đình Parthia. Ông duy trì mối quan hệ đa thê và người kế vị thường là con trai cả.[194] Giống như nhà Ptolemaios của Ai Cập, cũng có các ghi chép về những vị vua Arsaces kết hôn với cháu gái của họ và có lẽ ngay cả với những chị em cùng cha, Nữ hoàng Musa kết hôn với con trai mình, mặc dù đây là một trường hợp cực đoan và bị lên án.[194] Brosius cung cấp một trích dẫn từ một lá thư viết bằng tiếng Hy Lạp của vua Artabanus II trong năm 21 CN, gửi tới thống đốc (có đề tựa là "Archon") và công dân của thành phố Susa. Những chức vụ của những người bạn, vệ sĩ hay thủ quỹ được vua ưu tiên hơn đều được đề cập. Ngoài ra, tài liệu này cũng đã chứng minh rằng "tuy là có những phạm vi quyền hạn và thủ tục để bộ nhiệm một người chức vụ cao, nhà vua có thể can thiệp thay mặt một cá nhân, xem xét lại trường hợp đó và sẽ thay đổ quyết định nếu như ông ấy thấy phù hợp."[195]

Các chức danh cha truyền con nối của địa vị quý tộc được ghi lại trong suốt triều đại của vua đầu tiên nhà Sassanid vua Ardahir I, rất có thể là sự tiếp tục các chức danh đã được sử dụng trong thời kỳ Parthia[196] Có ba tầng lớp riêng biệt trong giới quý tộc, cao nhất là những vị vua chư hầu trực tiếp nằm dưới sự cai trị bởi vua của các vua, thứ hai là những người liên quan đến vua của các vị vua chỉ có thông qua hôn nhân, và thứ tự thấp nhất là người đứng đầu gia tộc địa phương và vùng lãnh thổ nhỏ [197].

Đến thế kỷ I, tầng lớp quý tộc Parthia đã nắm nhiều quyền lực và có ảnh hưởng lớn trong việc chọn người kế vị hay lật đổ các vị vua Arsaces[198] Một số quý tộc có vai trò như cố vấn triều đình cho nhà vua, cũng như các giáo sĩ thần thánh.[199] Trong số những đại gia tộc cao quý của Parthia được liệt kê vào lúc bắt đầu thời kỳ Sasania, chỉ có hai trong số đó được đề cập cụ thể trong các văn bản trước đó của Parthia: Gia tộc Surengia tộc Karen.[199] Nhà sử học Plutarch lưu ý rằng các thành viên của gia tộc Suren, quan trọng nhất trong giới quý tộc, đã có được đặc quyền trao vương miện cho mỗi vua của các vị vua nhà Arsaces mới trong lễ đăng quang của họ.[200] Sau đó, một số vị vua Parthia còn tự xưng là có dòng dõi Achaemenes. Điều này gần đây đã được chứng minh bởi khả năng mắc bệnh di truyền U sợi thần kinh (Neurofibromatosis), được chứng minh qua những mô tả về cơ thể các vua và bằng chứng về căn bệnh gia tộc được ghi lại trên những đồng tiền cổ.[201]

Quân đội

Một hình chạm khắc bằng vữa xtuccô vẽ hình một bộ binh, từ tường của pháo đài Zahhak, tỉnh Đông Azarbaijan, Iran

Đế chế Parthia không có quân đội thường trực, nhưng họ lại có thể nhanh chóng tuyển mộ được quân đội mỗi khi có một cuộc khủng hoảng địa phương xảy ra[202] Có một Lực lượng vũ trang thường trực dùng để bảo vệ nhà vua, bao gồm quý tộc, nông nô và lính đánh thuê, nhưng đoàn tùy tùng hoàng gia này nhỏ [203] Những đội quân đồn trú cũng thường xuyên được duy trì ở các pháo đài biên giới; Những dòng chữ khắc Parthia tiết lộ một số các chức danh quân sự ban cho những chỉ huy tại các địa điểm này [203] Lực lượng quân đội cũng có thể được sử dụng trong các cử chỉ ngoại giao. Ví dụ, khi sứ thần Trung Quốc viếng thăm Parthia ở cuối thế kỷ thứ II trước Công nguyên, Sử Ký Tư Mã Thiên đã đề cập tới 20.000 kỵ binh được phái đến biên giới phía đông để phục vụ hộ tống sứ thần, mặc dù con số này có lẽ là một sự phóng đại.[204]

Lực lượng chiến đấu chính của quân đội Parthia là cataphract, kỵ binh nặng với người lính và ngựa được bảo vệ bởi áo giáp lưới[205]. Lực lượng Cataphract được trang bị với một ngọn thương để đột kích vào hàng ngũ kẻ thù, cũng như cung và tên.[206] Do chi phí trang bị và áo giáp của họ, cataphract được tuyển chọn từ trong tầng lớp quý tộc, đổi lại cho sự phục vụ của họ, là sự đòi hỏi một hình thức tự chủ ở cấp địa phương từ các vị vua Arsaces[207] Kỵ binh nhẹ được tuyển chọn từ tầng lớp thường dân và phục vụ làm lực lượng kị cung, họ mặc áo dài và quần dài đơn giản để tham gia vào trận chiến [205] Họ đã sử dụng cung ghép và có thể bắn vào kẻ thù trong khi đang cưỡi ngựa và quay mặt đi với kẻ thù, kỹ thuật này, được gọi là bắn kiểu Parthia, là một chiến thuật có hiệu quả cao.[208] Kỵ binh nặng và nhẹ của Parthia được chứng minh là một yếu tố quyết định trong Trận Carrhae, một lực lượng Ba Tư đánh bại một đội quân La Mã lớn hơn nhiều dưới sự chỉ huy của Crassus. Các đơn vị bộ binh nhẹ, bao gồm tuyển mộ từ dân thường và lính đánh thuê, được sử dụng để phân tán quân đội của đối phương sau khi kỵ binh đột kích.[209]

Kích thước của quân đội Parthia là không rõ, cũng như là kích thước dân số tổng thể của đế chế. Tuy nhiên, các cuộc khai quật khảo cổ học ở những khu đô thị cũ của Parthia cho thấy các khu định cư đó có thể duy trì dân số lớn và do đó có một nguồn nhân lực lớn[210]

Tiền tệ

Những đồng xu drachma Hy Lạp, thường được làm bằng bạc,[211] bao gồm cả tetradrachm, là đồng tiền tiêu chuẩn được sử dụng trong suốt thời Đế chế Parthia[212] Nhà Arsaces duy trì khu đúc tiền của hoàng gia tại các thành phố Hecatompylos, Seleucia, và Ecbatana[41] Nhiều khả năng họ đã mở một sở đúc tiền tại Mithridatkert / Nisa [25] Từ khi thành lập đế quốc cho đến khi nó sụp đổ, drachm được ban hành trong suốt thời đại Parthia hiếm khi cân nặng ít hơn 3,5 g hoặc nhiều hơn 4,2 g.[213] Những đồng tetradrachm Parthia đầu tiên, trọng lượng về nguyên tắc khoảng 16 g với một số biến thể, xuất hiện sau khi Mithridates I chinh phục vùng Lưỡng Hà và được đúc độc quyền tại Seleucia.[214]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đế_quốc_Parthia http://www.iranchamber.com/art/articles/art_of_par... http://www.iranchamber.com/history/parthians/parth... http://www.iranchamber.com/history/parthians/parth... http://www.jprasurg.com/article/S1748-6815(10)0052... http://www.jprasurg.com/article/S1748-6815(10)0052... http://www.parthia.com/ http://jwsr.pitt.edu/ojs/index.php/jwsr/article/vi... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/20832372 http://www.persianempire.info/parthia9.htm http://www.phaptangpgvn.net/WEBNCPGTV/NCPGTV_8.htm